View-content - Xã Hồng Kỳ

An ninh quốc phòng

Chiến thắng Điện Biên Phủ – Mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc!
Ngày đăng 05/05/2025 | 06:51  | Lượt truy cập: 25

 

Kỷ niệm 71 năm Ngày chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2025):

Chiến thắng Điện Biên Phủ – Mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc!

 

Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến công vang dội của một dân tộc vốn là thuộc địa, đánh thắng quân đội hiện đại của một đế quốc. Đây cũng là chiến thắng điển hình nhất trong lịch sử đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống quân xâm lược nước ngoài, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Chính vì vậy, chiến thắng Điện Biên Phủ mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của tinh thần quật cường, bất khuất, trí thông minh, sáng tạo và sức mạnh đại đoàn kết của nhân dân Việt Nam.

Chiều 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ảnh: Triệu Đại/TTXVN

Chiều 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ảnh: Triệu Đại/TTXVN

Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc. Cánh đồng Điện Biên Phủ có chiều dài khoảng 18km, chiều rộng từ 6km đến 8km. Đây là cánh đồng lớn nhất, giàu có nhất và dân cư đông đúc nhất ở Tây Bắc. Điện Biên Phủ ở gần biên giới Việt Nam – Lào, nằm trên ngã ba nhiều đường lớn và đường nhỏ quan trọng, phía đông bắc nối liền với Lai Châu, phía đông và đông nam nối liền với Tuần Giáo, Sơn La, Nà Sản, phía tây thông với Luông Prabăng, phía nam thông với Sầm Nưa (Lào). Đối với thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, vùng Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân có tác dụng rất lợi hại trong âm mưu xâm lược vùng Đông Nam Á.

 

Đánh giá đây là một vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất ở Đông Dương, nên sau khi đánh chiếm Điện Biên Phủ vào ngày 20 tháng 11 năm 1953, quân Pháp không ngừng tăng thêm binh lực, vũ khí, trang thiết bị quân sự, xây thêm nhiều công sự, đồn lũy và các loại vật tư khác. Được sự giúp đỡ của Mỹ về cố vấn, trang bị kỹ thuật, kinh tế, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương, một “pháo đài bất khả xâm phạm”, một “con nhím” hoàn hảo được tổ chức phòng ngự theo kiểu hiện đại, là nơi “nghiền nát chủ lực của Việt Minh”.

 

Sau khi phân tích tình hình trên các chiến trường, đầu tháng 12 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết định tập trung lực lượng mở chiến dịch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”. Từ đây, một cuộc động viên sức người, sức của của toàn dân tộc đã được triển khai, với quy mô lớn chưa từng có. Công nhân, nông dân, trí thức, học sinh, nhà buôn và cả một số địa chủ, tư sản, ai ai cũng sẵn lòng góp công, góp của.

 

Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, cả nước đã dồn sức cho chiến trường Điện Biên Phủ. Tổng kết toàn chiến dịch, nhân dân cả nước huy động được 23.126 tấn gạo, 266 tấn muối, 992 tấn thịt, 800 tấn rau, 917 tấn thực phẩm khác… Huy động 216.451 lượt dân công bằng 12 triệu ngày công, 20.991 xe đạp thồ, 736 xe súc vật kéo, 11.400 thuyền bè mảng. Đồng bào nhiều địa phương cùng sát cánh bên nhau xẻ núi, san đồi, làm đường, phá thác để mở lối cho quân đi, cho thuyền chở hàng qua lại. Chỉ có sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tinh thần yêu nước nồng nàn mới tạo nên khí thế cả nước ra trận. Và chính nhờ những nỗ lực đó mà điều lo lắng và khó khăn nhất tưởng chừng như không thể vượt qua là vấn đề hậu cần chiến dịch đã được giải quyết thành công.

 

Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có 49 cứ điểm, được chia làm 3 phân khu. Trên chiến trường, ta mở ba đợt tiến công vào Điện Biên Phủ. Đợt 1 của chiến dịch mở màn ngày 13 tháng 3 năm 1954, với trận tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam thuộc vòng ngoài phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm. Đợt 2 diễn ra ngày 30 tháng 3 năm 1954, đánh vào phân khu trung tâm. Đợt 3 chiến dịch diễn ra ngày 1 tháng 5 và kết thúc ngày 7 tháng 5 năm 1954, đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Năm mươi sáu ngày đêm chiến đấu gian khổ là “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn”, là năm mươi sáu ngày đêm quả cảm của những chiến sỹ Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng “đầu bịt lỗ châu mai”, “chèn lưng cứu pháo”, “xẻ núi lăn bom”, “dù bom đạn xương tan, thịt nát, Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh”… để đất nước đi đến mốc son lịch sử chói lọi ngày 7 tháng 5 năm 1954, khi Lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” tung bay trên nóc hầm sở chỉ huy tướng Đờ Cát, báo hiệu Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng!

 

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán ký Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Chiến thắng vĩ đại này đã mở ra giai đoạn cách mạng mới, đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đó còn là chiến thắng có tầm vóc quốc tế, góp phần làm xoay chuyển cục diện thế giới, mở ra trang sử mới cho nhân loại.

 

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, của ý chí quyết chiến, quyết thắng, “dám đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng”; của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Nhờ sự đoàn kết chặt chẽ và anh dũng hy sinh của toàn quân và toàn dân ta, chúng ta đã đại thắng ở Điện Biên Phủ”. Chính sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ấy được phát huy cao độ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ mà tướng Navare – Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương – đã phải thừa nhận: “Quân viễn chinh Pháp không những phải chống chọi với một đội quân chính quy mà còn phải đương đầu với cả một dân tộc”.

 

Bảy mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng ý nghĩa lịch sử, tầm vóc thời đại và những bài học kinh nghiệm quý báu của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên giá trị và mang tính thời sự sâu sắc đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay. Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp phần làm cho “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Phát huy tinh thần chiến thắng Điện Biên Phủ năm xưa và tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc hôm nay, đất nước ta đang vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình – kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

 

 

Ngày 7/5/1954: Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng
Ngày đăng 05/05/2025 | 06:51  | Lượt truy cập: 4

4 giờ sáng ngày 7/5/1954, Trung đoàn 174 hoàn toàn làm chủ đồi A1 (Eliane 2). 9 giờ cùng ngày, Trung đoàn 98 tiến công tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm C2 (Eliane 4), bắt 600 tên địch. Trung đoàn 165 hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm 506 (Eliane 10) ở phía bắc Mường Thanh.

 

Ở phía tây, Đại đoàn 308 giải quyết xong cứ điểm 310 còn gọi Nà Noọng (Claudine 4), đưa trận địa tiến công của đơn vị áp sát cách sở chỉ huy Đờ Cát-xtơ-ri khoảng 300m. Đến 9 giờ sáng, các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ được giao, sẵn sàng chuyển sang tổng công kích.

Thời điểm kết thúc trận quyết chiến lịch sử đã tới gần, Bộ chỉ huy chiến dịch tập trung theo dõi tình hình để kịp thời xử lý các tình huống. 10 giờ sáng ngày 7/5/1954, trong khi các Đại đoàn đang đẩy mạnh công tác chuẩn bị để bảo đảm cho cuộc tổng công kích thắng lợi thì cơ quan quân báo mặt trận phát hiện máy bay địch chở vũ khí, đạn dược được lệnh quay về Hà Nội. Những chiếc máy bay vận tải chở quân dù lên tiếp viện cho Điện Biên Phủ cũng được lệnh quay trở về sân bay Gia Lâm.

Ở dưới mặt đất, các đài quan sát của ta phát hiện địch quẳng súng đạn xuống sông Nậm Rốm và trong khu Mường Thanh có nhiều tiếng nổ lớn. Bộ Chỉ huy chiến dịch nhận định tình hình địch bắt đầu có những dấu hiệu rối loạn, dự kiến có nhiều khả năng địch đầu hàng, cũng có khả năng chúng liều lĩnh phá vòng vây mở đường máu chạy về phía Lào. Các đơn vị được lệnh giữ chặt vòng vây, đồng thời sẵn sàng chuyển sang tổng công kích, quyết không để cho một tên địch nào chạy thoát.

 

Bộ đội ta đang vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào khu trung tâm

14 giờ ngày 7/5/1954, Trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) mở cuộc tiến công cứ điểm 507 ở gần cầu Mường Thanh. Địch ở 507 kéo cờ trắng ra hàng. Thừa thắng, Đại đoàn 312 tiến công tiêu diệt tiếp hai cứ điểm 508 và 509 ở tả ngạn sông Nậm Rốm. Ở cả hai cứ điểm này, địch chống cự rất yếu ớt.

Trước tình hình quân địch đang trong tình trạng rối loạn, không còn tinh thần chiến đấu, mặc dù thời gian dự kiến tổng công kích là vào tối ngày 7/5/1954, các đơn vị tranh thủ ngay thời cơ thuận lợi tiến vào tập đoàn cứ điểm địch. Từ hướng đông, Trung đoàn 209 tiến thẳng vào Mường Thanh, tiếp sau là các trung đoàn 98 và 174.

Bên phía tây, Trung đoàn 36 tiến vào cứ điểm cuối cùng che chở cho sở chỉ huy địch. Trung đoàn 88 cũng mở đường qua sân bay để tiến vào sào huyệt cuối cùng của tập đoàn cứ điểm. Bộ đội ta tiến tới đâu, quân địch đầu hàng tới đó. Nhiều toán địch từ các chiến hào lũ lượt kéo nhau ra nộp vũ khí. Đến 17 giờ 15 phút, một cánh quân của Đại đoàn 312 tiến sát sở chỉ huy địch. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật cùng 4 chiến sĩ là Hoàng Đăng Vinh, Bùi Văn Nhỏ, Nguyễn Văn Lam và Đào Văn Hiếu tiến vào hầm bắt tướng Đờ Cát-xtơ-ri cùng toàn bộ Bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Toàn bộ bộ chỉ huy địch ở Điện Biên Phủ đi đầu là tên tướng Đờ Cát-xtơ-ri ra hàng.

Đờ Cát-xtơ-ri đã bị bắt, nhưng trên hướng Hồng Cúm, địch vẫn chống cự. Đêm 7/5/1954, lợi dụng trời tối, quân địch ở đây tổ chức rút chạy về hướng Thượng Lào. Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho Đại đoàn 304 tích cực truy lùng, đồng thời lệnh cho Trung đoàn 102 hành quân gấp sang Tây Trang chặn đường rút của địch. Đến 22 giờ, Đại đoàn 304 bao vây, bắt gọn toàn bộ quân địch ở Hồng Cúm thoát ra.

Như vậy, sau 56 ngày đêm (từ ngày 13/3/1954 đến ngày 7/5/1954) chiến đấu kiên cường, quân và dân ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Trong toàn chiến dịch, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu và bắt làm tù binh 16.200 tên địch, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, ba tiểu đoàn pháo binh, súng cối, 10 đại đội ngụy bổ sung và các đơn vị công binh, vận tải, xe tăng, không quân...

Tổng số sĩ quan, hạ sĩ địch bị tiêu diệt và bắt sống là 1.766 tên, gồm 1 thiếu tướng, 16 đại tá, trung tá, 353 sĩ quan từ cấp thiếu úy đến thiếu tá, 1.396 hạ sĩ quan. Tổng số máy bay địch bị bắn rơi và phá hủy ở ngay tại mặt trận là 57 chiếc, ngoài ra còn có 5 chiếc bị bắn rơi trên tuyến cung cấp cho mặt trận.

Ta thu toàn bộ vũ khí kho tàng của địch ở Điện Biên Phủ, trong đó có 28 khẩu pháo lớn, 64 xe, 5.915 khẩu súng các loại, 20.000 lít xăng dầu, 21.000 chiếc dù, 20 tấn thuốc và dụng cụ quân y cùng nhiều đạn dược, quân trang, quân dụng[1].

 

Toàn bộ bọn giặc Pháp còn sống sót ở Điện Biên Phủ đã kéo cờ trắng lũ lượt ra hàng.

Về phía địch

* Tại Điện Biên Phủ

10 giờ sáng ngày 7/5/1954, như thường lệ, tướng Đờ Cát-xtơ-ri gọi điện trực tiếp báo cáo tình hình với tướng Cônhi. Sau 10 đêm không ngủ, giọng nói của Đờ Cát-xtơ-ri rất yếu. Đờ Cát-xtơ-ri đề nghị cố thực hiện một cuộc hành quân rút chạy. Dựa theo kế hoạch này sẽ phát cho tất cả lính dù và lính lê dương còn lại hai ngày lương thực ăn đường bằng đồ hộp nhẹ, gồm bánh biscuit, sôcôla bổ dưỡng và những đồng bạc trắng mà người Mông vẫn tiêu dùng để phòng thân[2].

15 giờ 30 phút cùng ngày: Cuộc họp cuối cùng của Đờ Cát-xtơ-ri với Lăng-gơ-le (Langlais), Bi-gi-a (Bigeard), Pa-zi (Pazzis).

16 giờ: Đờ Cát-xtơ-ri nói chuyện điện thoại vô tuyến với tướng Bodet ở Tổng hành dinh. Ra lệnh ngừng bắn vào 17 giờ.

17 giờ: Ngừng bắn.

18 giờ 30 phút: Ta gọi hàng Lalande chỉ huy phân khu Nam (Isabelle).

20 giờ: Đại đội 12 thuộc trung đoàn bộ binh lê dương số 3 vừa ra khỏi Isabelle vài trăm mét thì bị ta chặn đánh.

 

Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ của giặc Pháp ở Điện Biên Phủ bị quân ta phá hủy và thu được

* Thừa nhận thất bại, Tổng chỉ huy Nava viết trong hồi ký: “Chúng ta mất khoảng 16 nghìn người, trong đó 1.500 chết và 4.000 bị thương. Tính đơn vị, thiệt hại của ta gồm 16 tiểu đoàn (trong đó có 7 tiểu đoàn dù), 2 tiểu đoàn pháo 105mm và một đại đội 155mm, 1 tiểu đoàn xe tăng và một số đơn vị binh chủng và bảo đảm khác. So với đạo quân viễn chinh, thiệt hại này chiếm 9% và so với tổng số quân ở Đông Dương thì chiếm 3,5%”[3].

* Ở Paris, 17 giờ ngày 7/5/1954, Tổng thống Laniel báo cáo trước Quốc hội: Điện Biên Phủ đã bị mất. Lúc này ở Đông Dương là 1 giờ sáng ngày 8/5/1954[4].

Trong thời điểm tổng tấn công, công tác thông tin liên lạc được bảo đảm thông suốt, hỗ trợ Bộ Chỉ huy điều hướng các mũi tiến công của quân ta nhanh chóng đột phá các cứ điểm cuối cùng của địch.

Trong bài viết “Bảo đảm thông tin liên lạc trong chiến dịch Điện Biên Phủ”, Thiếu tướng Khúc Đăng Tuấn, Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc (Kỷ yếu hội thảo khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954-7/5/2019) kể lại: “Ngày 7/5, các lực lượng thông tin liên lạc đã bảo đảm vững chắc cho Bộ Chỉ huy Chiến dịch chỉ huy các đơn vị đồng loạt tiến công và làm chủ hoàn toàn cứ điểm Đồi A1 (lúc 4 giờ 30 phút), Đồi C2 (lúc 9 giờ). Trên toàn Mặt trận Điện Biên Phủ, quân địch không còn tinh thần chiến đấu, vô cùng rối loạn, khắp khu trung tâm Mường Thanh đã xuất hiện binh lính địch vẫy cờ trắng ra hàng.

Trước thời cơ mới, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Chiến dịch (thông qua tất cả các mạng thông tin liên lạc đã triển khai) ra lệnh cho các đơn vị: Không cần chờ đến tối ngày 7/5 như đã dự định, chuyển ngay sang tổng công kích, thời cơ tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch đã xuất hiện. Các phân đội thông tin liên lạc đã bám sát chỉ huy, kịp thời bảo đảm thông tin cho các đơn vị chủ lực thừa thắng tiến công các vị trí còn lại của địch. Một phân đội của Đại đoàn 312 vượt nhanh qua cầu Mường Thanh tiến thẳng vào hầm chỉ huy tập đoàn cứ điểm, bắt sống Tướng Đờ Cát-xtơ-ri và Bộ Tham mưu của địch vào lúc 17 giờ 30 phút ngày ngày 7/5/1954.

21 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, Ban Thông tin Chiến dịch đã nhận bức điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tư lệnh, kiêm Bí thư Đảng ủy Chiến dịch. Đội 101 thông qua hệ thống thông tin vô tuyến điện đã kịp thời chuyển bức điện báo cáo Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Quân ta đã đại thắng tại Điện Biên Phủ”.

 

Cán bộ quân y của ta đang cứu chữa bọn thương binh địch trong các hầm ngầm.

Ngay sau chiến thắng, công tác hậu cần được tiến hành khẩn trương với nhiều nhiệm vụ mới. Trong cuốn “Chiến thắng Điện Biên Phủ: Sức mạnh Việt Nam và tầm vóc thời đại”, NXB Khoa học xã hội (2014), ThS. Lương Thị Hồng Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có đoạn:

“Ngày 7/5/1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Trong không khí vui mừng phấn khởi, các đơn vị bộ đội, dân công lần lượt hành quân về xuôi thì các đơn vị Thanh niên xung phong tiếp tục nhận nhiệm vụ mới: ở lại cùng một số đơn vị hậu cần quân đội thu dọn chiến trường”.

 

Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ bị quân ta phá hủy và thu được tại mặt trận Điện Biên Phủ

Còn trong cuốn “Đại tướng Võ Nguyên Giáp với chiến dịch Điện Biên Phủ”, NXB Quân đội nhân dân (2014), nhóm tác giả viết: “Sau khi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt, Trung đoàn công bình 151 cùng thanh niên xung phong, công nhân giao thông và dân công làm nhiệm vụ bảo đảm đường số 41 cho các đơn vị bộ đội rút quân và tiến về đồng bằng. Đang giữa mùa mưa lũ, đường số 41 vẫn lầy lún, sụt lở, việc bảo đảm cho hàng trăm xe, pháo và hàng vạn người di chuyển tấp nập kéo dài gần 2 tháng đầy khó khăn vất vả. Lực lượng dân công tuy đã rút nhiều, nhưng vẫn còn trên 10.000 người. Nhờ đó giao thông trên đường 41 không bị ngừng trệ. Sau chiến dịch, công binh còn quét mìn, dọn dây thép gai, bảo vệ các kho tàng, thu dọn chiến trường, biến cảnh lộn xộn, đổ nát chết chóc trở lại bình yên, đầy sức sống cho cánh đồng Mường Thanh”.

 


[1] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Tập 6, Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, kháng chiến kết thúc thắng lợi, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2016, tr.314.

[2] JEAN POUGET, Tướng Navarre với trận Điện Biên Phủ, Người dịch Lê Kim, Nxb Công an nhân dân phối hợp với Công ty Văn hóa Phương Nam phối hợp thực hiện, tr.521.

[3] Henri Navarre, Thời điểm của những sự thật, người dịch Nguyễn Huy Cầu, Nxb Công an nhân dân và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Hà Nội, 1994, tr. 219.

[4] JEAN POUGET, Tướng Navarre với trận Điện Biên Phủ, Người dịch Lê Kim, Nxb Công an nhân dân phối hợp với Công ty Văn hóa Phương Nam phối hợp thực hiện, tr.522.

Nội dung: Thiếu tá, ThS Trần Quốc Dũng - Viện Lịch sử quân sự; Ngọc Bách Thu
Ảnh: TTXVN

 

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam
Ngày đăng 05/05/2025 | 06:40  | Lượt truy cập: 3

Cách đây 71 năm, ngày 7-5-1954, quân và dân Việt Nam đã lập nên kỳ tích lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, đập tan Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ-“pháo đài bất khả xâm phạm”, niềm kiêu hãnh của quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương.

 

Chiến thắng Điện Biên Phủ góp phần quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta. Với chiến thắng đó, dân tộc Việt Nam đã đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược, những nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc Pháp phải ký Hiệp định Geneva, cam kết chấm dứt chiến tranh, tôn trọng độc lập, chủ quyền của 3 nước Việt Nam-Lào-Campuchia. Cả thế giới nhắc đến “Việt Nam-Hồ Chí Minh, Việt Nam-Điện Biên Phủ”(1) với sự yêu mến, khâm phục.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là một “thiên sử vàng” và “đã được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa của thế kỷ 20"(2). Đây là kết quả của nhiều yếu tố hợp thành, mà ngọn nguồn sâu xa chính là bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam in đậm dấu ấn trong những quyết định đúng đắn, sáng tạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp và ý chí quyết chiến, quyết thắng cao độ, tinh thần dũng cảm, kiên cường vượt mọi gian khổ, hy sinh của cả dân tộc để đưa Chiến dịch Điện Biên Phủ tới thắng lợi hoàn toàn.

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam

 Huấn luyện diễu binh, diễu hành chuẩn bị phục vụ Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Ảnh: VIỆT TRUNG

Thứ nhất, bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thể hiện trong đánh giá tình hình, quyết định phá Kế hoạch Navarre, mở Chiến dịch Điện Biên Phủ

Sau những thất bại liên tiếp trên chiến trường 3 nước Việt Nam-Lào-Campuchia, để cứu vãn tình thế, Chính phủ Pháp thực hiện cải tổ chỉ huy quân đội ở Đông Dương. Theo đó, tháng 5-1953, tướng H.Navarre được điều sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương thay tướng R.Salan. Chỉ hơn một tháng sau, H.Navarre đã vạch ra kế hoạch chiến lược mới mang tên Kế hoạch Navarre và được Hội đồng Quốc phòng Pháp chấp thuận. Kế hoạch Navarre nuôi tham vọng giành thắng lợi quyết định về quân sự trong vòng 18 tháng, làm cơ sở thực hiện “một giải pháp chính trị thích hợp để giải quyết chiến tranh”(3) và tìm “lối thoát danh dự” cho nước Pháp.

Trước tình hình địch ráo riết chuẩn bị thực hiện Kế hoạch Navarre, cuối tháng 9-1953, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bàn kế hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-1954. Với bản lĩnh kiên định và trí tuệ tập thể, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị đã xác định quyết tâm, phương hướng chiến lược và chủ trương tác chiến đúng đắn là: Dùng một bộ phận chủ lực, kết hợp với lực lượng địa phương mở các cuộc tiến công vào những hướng địch tương đối yếu, tiêu diệt sinh lực địch và giải phóng đất đai; cùng lúc đó, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch, buộc chúng phân tán quân cơ động để đối phó trên nhiều hướng, khoét sâu vào mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán binh lực của địch. Phương châm tác chiến được Bộ Chính trị xác định là: “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc là hướng chính, còn các hướng khác là hướng phối hợp(4).

Triển khai thực hiện phương hướng chiến lược và phương châm tác chiến đã được xác định trong kế hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-1954, ta chủ động mở các cuộc tiến công trên các hướng Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào-Đông Bắc Campuchia và Bắc Tây Nguyên, đẩy địch vào thế bị động đối phó. Khối cơ động chiến lược của Pháp bị chia nhỏ, phân tán trên nhiều chiến trường.

Ý đồ của địch là tập trung lực lượng lớn ở Đồng bằng Bắc Bộ để đối phó với bộ đội chủ lực ta, nhằm đè bẹp chiến tranh du kích và uy hiếp vùng tự do bị thất bại. Bằng các cuộc tiến công trên 5 hướng, ta điều được lực lượng địch, thu hút chúng đến những chiến trường có lợi cho ta, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và bảo vệ được vùng tự do. Đồng thời, tạo được sự phối hợp nhịp nhàng giữa tác chiến tập trung của các đại đoàn chủ lực với chiến tranh du kích rộng khắp, kết hợp giữa mặt trận chính diện với mặt trận sau lưng địch và với chiến trường hai nước Lào và Campuchia, từ đó làm cho Kế hoạch Navarre bị đảo lộn, từng bước đi tới phá sản.

Khi ta đang tích cực thực hiện kế hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-1954, thì ý đồ của Bộ chỉ huy quân Pháp là chủ động tiến hành một trận “tổng giao chiến” mang tính quyết định trên một chiến trường do chúng lựa chọn để tiêu diệt chủ lực của ta.

Tuy nhiên, khi phát hiện bộ đội ta di chuyển lên Tây Bắc, thấy nguy cơ Lai Châu và Thượng Lào bị uy hiếp, địch buộc phải điều chỉnh kế hoạch, vội vã điều lực lượng sang Trung Lào và sử dụng 6 tiểu đoàn quân tinh nhuệ nhất của chúng nhảy dù xuống chiếm Điện Biên Phủ, từng bước xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của Pháp tại Đông Dương để bảo vệ Thượng Lào và sử dụng Điện Biên Phủ như cái bẫy nhằm thu hút, “nghiền nát chủ lực Việt Minh”. Giới quân sự Pháp và Mỹ coi đây là giải pháp quyết định thắng lợi cho chiến tranh Đông Dương.

Trước diễn biến mới của tình hình, ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị họp, nghe Tổng Quân ủy trình bày kế hoạch tác chiến mùa Xuân 1954. Với bản lĩnh, trí tuệ và phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị đánh giá Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng lại có cái yếu cơ bản là bị cô lập, ở rất xa hậu phương địch, mọi tiếp tế vận chuyển đều phải dựa vào đường không. Đối với ta, Điện Biên Phủ cũng là nơi xa hậu phương, khó khăn về tiếp tế hậu cần cũng rất lớn, nhưng với ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cả tiền tuyến và hậu phương, ta có khả năng khắc phục được và quân dân ta chắc chắn đánh thắng quân địch ở Điện Biên Phủ.

Trên cơ sở phân tích một cách khoa học tương quan lực lượng giữa ta và địch, điều kiện thực tế và triển vọng tình hình của hai bên, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến của Tổng Quân ủy, chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954 và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ với quyết tâm tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm của địch.

Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Chiến dịch Điện Biên Phủ đối với tình hình quân sự và chính trị ở Đông Dương, đối với sự trưởng thành của Quân đội ta cũng như đối với công cuộc bảo vệ hòa bình thế giới có một ý nghĩa rất quan trọng”(5) và nhấn mạnh trận Điện Biên Phủ sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay. Đây thực sự là một quyết tâm đầy bản lĩnh, trí tuệ, đặt ra yêu cầu phải phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, vì ta chấp nhận giao chiến ở nơi kẻ thù có lực lượng mạnh nhất và thắng lợi ở trận chiến này sẽ có ý nghĩa quyết định đến cục diện chiến tranh.

Với tầm nhìn sâu rộng, tư duy quân sự sắc sảo, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quyết sách đúng đắn, để quân và dân ta nỗ lực chủ động, khôn khéo, kiên quyết phá Kế hoạch Navarre ngay từ đầu, buộc chúng phải bị động giao chiến trên một chiến trường do ta lựa chọn. Chiến thắng vang dội Điện Biên Phủ chiều 7-5-1954 đã chứng minh chủ trương chiến lược phá Kế hoạch Navarre và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ của ta là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện cao độ bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Thứ hai, bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thể hiện trong quyết định kịp thời thay đổi phương châm tác chiến chiến dịch phù hợp, đúng, hiệu quả

Triển khai thực hiện chiến dịch, ngày 26-11-1953, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Tham mưu trưởng chiến dịch dẫn đầu đoàn tiền phương của Bộ Tổng Tư lệnh lên đường đi Tây Bắc.

Qua nắm bắt tình hình, đoàn đã nghiên cứu cân nhắc 2 phương án: Tiến công tiêu diệt địch nhanh, gọn hoặc bao vây đánh dần từng bước, cuối cùng quyết định lựa chọn “dùng cách đánh nhanh để tiêu diệt địch”(6), tranh thủ thời cơ thực hiện đánh sớm và đánh nhanh để giành thắng lợi khi địch chưa kịp xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh.

Ngày 5-1-1954, Tổng Tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch lên đường ra mặt trận. Ngày 14-1-1954, Hội nghị cán bộ chiến dịch do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì họp ở Sở chỉ huy lâm thời tại hang Thẩm Púa. Trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng “toàn thể hội nghị thống nhất ý kiến là nên đánh nhanh, giải quyết nhanh, tất cả mọi người đều phấn khởi quyết tâm diệt gọn toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ trong một trận”(7).

Hội nghị quyết định thời gian nổ súng vào ngày 20-1-1954. Dự kiến chiến dịch diễn ra trong 3 đêm, 2 ngày liên tục. Mặc dù công tác chuẩn bị để “đánh nhanh, giải quyết nhanh” được tiến hành rất khẩn trương, nhưng gần đến ngày nổ súng mà các đơn vị pháo binh tham gia chiến dịch vẫn chưa đưa hết pháo vào vị trí quy định. Từ thực tiễn đó, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định lùi ngày nổ súng tiến công đến ngày 25-1. Tuy nhiên, gần đến ngày 25-1, lại quyết định lùi thời gian nổ súng sang ngày 26-1-1954.

Quá trình tổ chức chuẩn bị chiến trường để thực hiện phương án “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, ta đã nắm được sự thay đổi lớn về địch ở Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Lực lượng địch đã được tăng cường hơn 13 tiểu đoàn, hệ thống trận địa phòng ngự được xây dựng vững chắc, phía Tây trước đây còn là nơi sơ hở, nhưng đến lúc này chúng đã đóng thêm 2 cứ điểm, đồi Độc Lập trước đó chỉ là một vị trí tiền tiêu, nay được tăng cường thêm lực lượng và tổ chức thành một cụm cứ điểm nhỏ, ở phía Nam phân khu Hồng Cúm trước đó chỉ là một cứ điểm nhỏ, nay địch tổ chức thành cụm cứ điểm mạnh, có sân bay, pháo binh có thể cùng khu trung tâm Mường Thanh yểm hộ lẫn nhau. Đến thời điểm này, Điện Biên Phủ đã được quân Pháp xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm rất mạnh.

Trước tình hình địch tăng cường lực lượng và bố trí trận địa ở Điện Biên Phủ có nhiều thay đổi, ngày 26-01-1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định họp Đảng ủy chiến dịch. Tại hội nghị, Đại tướng đã trình bày những suy nghĩ của mình xung quanh cách đánh tập đoàn cứ điểm, những thay đổi quan trọng về phía địch từ sau Hội nghị Thẩm Púa và khẳng định: “Không thể đánh theo kế hoạch đã định... Nếu đánh là thất bại”(8). Với bản lĩnh, trí tuệ và ý chí quyết chiến, quyết thắng, Đại tướng đã đưa ra quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình là: “Để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”(9). Đồng thời, “hoãn cuộc tiến công theo kế hoạch, lệnh cho bộ đội toàn tuyến rút về vị trí tập kết, kéo pháo ra. Công tác chính trị bảo đảm triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. Hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới”(10).

Ngày 30-1-1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp (ký mật danh Hưng) điện báo cáo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh và Bộ Chính trị về phương án tác chiến “đánh chắc, tiến chắc” và được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh và Bộ Chính trị nhất trí, cho đây là một quyết định hoàn toàn đúng đắn.

Với quyết định thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, có rất nhiều vấn đề đặt ra, nhất là những khó khăn: Chiến dịch kéo dài, ác liệt hơn; mọi công tác chuẩn bị chiến trường, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, kế hoạch tác chiến và hợp đồng trên toàn mặt trận sẽ phải xây dựng lại. Nhưng với bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam được phát huy cao độ, các lực lượng đã khẩn trương hoàn thành các công việc cần thiết để bảo đảm cho chiến dịch giành thắng lợi. Ngày 13-3-1954, chiến dịch bắt đầu. Sau 56 ngày đêm chiến đấu vô cùng gian khổ, hy sinh với tinh thần quả cảm “quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh”(11) của cán bộ, chiến sĩ và các lực lượng tham gia chiến dịch, đến chiều 7-5-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ giành toàn thắng. Có được thắng lợi này là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân trực tiếp có tính chất quyết định là sự chỉ đạo chiến dịch với quyết định lịch sử chuyển từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, thể hiện bản lĩnh kiên định, trí tuệ sắc sảo, tư duy quân sự sáng suốt, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam và ý chí quyết chiến, quyết thắng của vị tướng tài ba Võ Nguyên Giáp-Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng chiến dịch.

Thứ ba, bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thể hiện trong phát huy sức mạnh đại đoàn kết và ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn dân tộc

Quá trình tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện đã động viên và phát huy thường xuyên được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quyết định tạo nên những thắng lợi to lớn.

Đặc biệt, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, sức mạnh đó đã được phát huy ở mức cao nhất. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta ở mọi miền đất nước, từ Tây Bắc, Liên khu 3, Tả Ngạn, đến Bình-Trị-Thiên, Liên khu 5, Nam Bộ... đều đẩy mạnh hoạt động phối hợp, liên tiếp tiến công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhân dân và nhiều vùng đất đai. Cùng với đó, lực lượng quần chúng khắp mọi nơi tích cực đấu tranh chính trị, phá tề trừ gian, binh, địch vận... phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ buộc thực dân Pháp phải phân tán lực lượng khắp nơi để đối phó và bị thất bại ngày càng nặng nề.

Chiến dịch Điện Biên Phủ-trận quyết chiến chiến lược diễn ra ở xa hậu phương của ta, nơi có địa hình và khí hậu rất khó khăn, phức tạp, hệ thống đường sá, giao thông chiến lược để phục vụ cơ động lực lượng và vận chuyển hàng hóa cho chiến dịch hầu như chưa có. Cho nên, để cung cấp, bảo đảm cho Chiến dịch Điện Biên Phủ quy mô lớn, diễn ra dài ngày về vật chất hậu cần, kỹ thuật với một khối lượng chưa từng có là điều hết sức khó khăn. Do đó, đòi hỏi phải phát huy cao độ bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam của toàn dân tộc.

Trước thử thách, khó khăn đó, với bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh tổng hợp của cả hậu phương và tiền tuyến đã được phát huy cao nhất, kịp thời cung cấp đầy đủ mọi yêu cầu về lương thực, thực phẩm, trang bị, vũ khí trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch. Nêu cao tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, các địa phương đã “đóng góp 25.560 tấn gạo, 226 tấn muối, 1.909 tấn thực phẩm, 26.453 lượt dân công, 20.991 xe đạp thồ, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ và 3.130 chiếc thuyền”(12) cho chiến dịch.

Đây là một nỗ lực phi thường thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, ý chí quyết chiến, quyết thắng và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam được phát huy cao độ, cùng lòng tin tuyệt đối vào Đảng, vào Chủ tịch Hồ Chí Minh nên đã phát huy cao nhất truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sức mạnh cả nước, thực hiện toàn dân đánh giặc góp phần làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ.

Đặc biệt, bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam còn được thể hiện ở tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn thể dân tộc, nhất là các chiến sĩ xung kích ngoài mặt trận, trực tiếp chiến đấu chống quân thù. Chiến dịch Điện Biên Phủ là cuộc tổng giao chiến, trận công kiên lớn nhất với những nỗ lực cao nhất về quân sự của cả ta và địch. Cho nên, ở đây đã diễn ra cuộc chiến đấu vô vàn khó khăn, gian khổ với nhiều tổn thất, hy sinh.

Song, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khơi dậy và phát huy cao nhất nguồn sức mạnh tinh thần vô địch của dân tộc, chủ nghĩa yêu nước kết thành ý chí quyết chiến, quyết thắng, làm cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam được phát huy cao độ, lập nên những chiến công rực rỡ. Đó là tinh thần dám đánh, biết đánh và quyết thắng. Mặc dù lần đầu tiên Quân đội ta đối đầu với một đội quân chủ lực trong một trận đánh công kiên lớn, nhưng nhờ có sức mạnh chính trị, tinh thần, kỷ luật và thế trận hợp lý đã phát huy được thế mạnh của ta, khắc chế được sức mạnh của địch.

Đặc biệt, thông qua quán triệt các mệnh lệnh của Chỉ huy trưởng chiến dịch về tăng cường ý thức chấp hành kỷ luật chiến trường, thực hiện việc chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” và tiến hành học tập, kiểm thảo, chỉnh quân chính trị, phát động căm thù trong và sau mỗi đợt tiến công của chiến dịch đã làm cho ý chí quyết chiến, quyết thắng, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam được phát huy cao nhất trong cán bộ, chiến sĩ và thanh niên, dân công tham gia chiến dịch.

Trong chiến đấu, đã xuất hiện nhiều tấm gương anh dũng, hy sinh quên mình vì nhiệm vụ, như: Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn... và hàng ngàn, hàng vạn chiến sĩ, đồng bào đã kiên cường, dũng cảm không sợ hy sinh, gian khổ với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh” góp phần quyết định làm nên thắng lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Tìm hiểu Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc Việt Nam, nhà báo Pháp Giuyn Roi đã có nhận xét đầy hình tượng về bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam: “Không phải viện trợ bên ngoài đã đánh bại tướng Navarre mà chính là những chiếc xe đạp thồ 200, 300 ký hàng và đẩy bằng sức người, những con người ăn chưa đủ no và ngủ thì nằm ngay dưới đất trải tấm ni lông. Cái đã đánh bại tướng Navarre, không phải là phương tiện mà là sự bản lĩnh, trí thông minh và ý chí của đối phương”(13).

Thứ tư, tiếp tục phát huy bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ vào công cuộc đổi mới đất nước hiện nay

Ngày nay, tuy hòa bình, hợp tác và phát triển đang là xu thế lớn, nhưng dự báo tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, khó lường. Các vấn đề tranh chấp chủ quyền quốc gia, tài nguyên, biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực mang đến thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Đối với nước ta, sau gần 40 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(14).

Trước yêu cầu phát triển đất nước theo mục tiêu: Đến năm 2025, là nước đang phát triển, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao(15), đòi hỏi toàn đảng, toàn dân và toàn quân phải tiếp tục phát huy bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa lên tầm cao mới. Nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thách thức. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, được thể hiện bằng sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tài thao lược của Tổng Tư lệnh-Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng với ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân Việt Nam, sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới. 7 thập kỷ đã trôi qua, nhưng bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam với tinh thần đoàn kết dân tộc, tự lực, tự cường, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ năm xưa vẫn luôn là tiềm năng quý giá, đã, đang và sẽ mãi tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc ta vững bước trên con đường xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thượng tướng TRỊNH VĂN QUYẾT, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

-----------

(1) Tiếng sấm Điện Biên Phủ, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1974, tr.343

(2) Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, NXB Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.50

(3) H.Navarre, Thời điểm của những sự thật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.93

(4) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập hồi ký, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.878

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.88

(6) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.190

(7) Bộ Tổng Tham mưu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Báo cáo về kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm trong các chiến dịch lớn, Tập III, tr.35-36

(8) Bộ Quốc phòng - Tỉnh ủy Điện Biên, Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7-5-1954/7-5-2019), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2019, tr. 166

(9) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập hồi ký, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.927

(10) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập hồi ký, Sđd, tr. 928

(11) Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr.44

(12) Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam (1944 - 1954), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993, tr.305

(13) Dẫn theo: Trí Nhân, “69 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ: Biểu tượng của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam” 06/05/2023://tuoitrethudo.com.vn/69-nam-chien-thang-dien-bien-phu-bieu-tuong-cua-ban-linh-va-tri-tue-viet-nam-223318.html

(14) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.25

(15) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Sđd, tr.112

Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa: Trang sử vẻ vang của dân tộc
Ngày đăng 30/01/2025 | 07:32  | Lượt truy cập: 1487

Cách đây 236 năm, vào mùa Xuân Kỷ Dậu 1789, dưới sự lãnh đạo tài tình của "người anh hùng áo vải", nghĩa quân Tây Sơn đã làm nên chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa với một cuộc hành quân thần tốc chưa từng có, đập tan quân xâm lược Mãn Thanh, giải phóng Thăng Long, giành lại độc lập tự do cho dân tộc

Triều đình nhà Thanh từ khi được thành lập luôn rắp tâm xâm lược thôn tính nước ta. Sau khi bị quân Tây Sơn đánh bại, vua Lê Chiêu Thống cùng một số đại thần thân cận đã bỏ chạy lên phía Bắc, cho người sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh. Nhận thấy đây là thời cơ thuận lợi để xâm lược, vua Thanh sai tướng Tôn Sỹ Nghị đem 29 vạn quân tiến sang nước ta.

Nhận được tin đó, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ quyết định làm lễ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, chỉ huy quân tiến ra Bắc. Chỉ sau một thời gian ngắn, đầu tháng Giêng năm Kỷ Dậu 1789, nghĩa quân Tây Sơn có mặt tại Tam Điệp, hội quân với tướng Ngô Văn Sở chuẩn bị tiến vào Thăng Long và tuyên chiến với quân Thanh.

Đêm mùng 3 Tết Kỷ Dậu 1789, quân Tây Sơn bao vây khống chế đồn Hạ Hồi (cách Thăng Long khoảng 20 km) uy hiếp, khống chế và làm tan rã lực lượng lớn quân Thanh, mở màn cho chiến dịch giải phóng Thăng Long. Ngày mùng 4 Tết Kỷ Dậu 1789, nghĩa quân đã tiếp cận được đồn Ngọc Hồi, phối hợp với các đạo quân khác chuẩn bị đánh chiếm và giải phóng Thăng Long.

Zalo

Sáng sớm mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789, quân Tây Sơn khắp nơi xung trận phá hủy các chiến lũy, đồn bốt và toàn bộ hệ thống phòng thủ phía Nam đồn Ngọc Hồi, đồng thời phối hợp với đạo quân của tướng Đặng Tiến Đông mở cuộc tiến công hết sức bất ngờ tiến vào khu đồn bốt Đống Đa, nhanh chóng thọc sâu vào những vị trí trọng yếu của quân Thanh, tiêu diệt sở chỉ huy địch.

Quân Thanh bị tiêu diệt đến 5000 quân, xác chết thành gò trước sức tiến công như triều dâng của nghĩa quân Tây Sơn. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử ngay tại sở chỉ huy, nghĩa quân Tây Sơn tiếp tục truy đuổi, bao vây doanh trại của chủ tướng giặc Tôn Sỹ Nghị.

Tôn Sỹ Nghị vội vàng vượt cầu phao trên sông Nhị Hà (sông Hồng) tháo chạy. Tàn quân Thanh thấy vậy cũng chen lấn xô đẩy vượt cầu phao đến nỗi cầu phao cũng gãy đứt, quân giặc chết hàng vạn người xác nổi đầy sông. Thăng Long được hoàn toàn giải phóng, đất nước được độc lập.

Trận Ngọc Hồi - Đống Đa đại thắng đã chứng tỏ nghệ thuật quân sự của người "anh hùng áo vải, cờ đào" Quang Trung Nguyễn Huệ, đó là: Thần tốc - Táo bạo - Bất ngờ. Bằng thắng lợi vĩ đại này, dân tộc ta đã đập tan sự xâm lược của quân Thanh, giải phóng hoàn toàn kinh thành Thăng Long, giữ vững nền độc lập dân tộc.

Zalo

Chiến thắng này còn đánh dấu việc nhà Tây Sơn chính thức thay nhà Lê trong việc cai quản đất Bắc Hà và trong quan hệ với nhà Thanh.

Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa là một chiến công vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử trọng đại và tiêu biểu trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Zalo

 

Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa: Trang sử vẻ vang của dân tộc
Ngày đăng 30/01/2025 | 07:32  | Lượt truy cập: 1487

Cách đây 236 năm, vào mùa Xuân Kỷ Dậu 1789, dưới sự lãnh đạo tài tình của "người anh hùng áo vải", nghĩa quân Tây Sơn đã làm nên chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa với một cuộc hành quân thần tốc chưa từng có, đập tan quân xâm lược Mãn Thanh, giải phóng Thăng Long, giành lại độc lập tự do cho dân tộc

Triều đình nhà Thanh từ khi được thành lập luôn rắp tâm xâm lược thôn tính nước ta. Sau khi bị quân Tây Sơn đánh bại, vua Lê Chiêu Thống cùng một số đại thần thân cận đã bỏ chạy lên phía Bắc, cho người sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh. Nhận thấy đây là thời cơ thuận lợi để xâm lược, vua Thanh sai tướng Tôn Sỹ Nghị đem 29 vạn quân tiến sang nước ta.

Nhận được tin đó, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ quyết định làm lễ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, chỉ huy quân tiến ra Bắc. Chỉ sau một thời gian ngắn, đầu tháng Giêng năm Kỷ Dậu 1789, nghĩa quân Tây Sơn có mặt tại Tam Điệp, hội quân với tướng Ngô Văn Sở chuẩn bị tiến vào Thăng Long và tuyên chiến với quân Thanh.

Đêm mùng 3 Tết Kỷ Dậu 1789, quân Tây Sơn bao vây khống chế đồn Hạ Hồi (cách Thăng Long khoảng 20 km) uy hiếp, khống chế và làm tan rã lực lượng lớn quân Thanh, mở màn cho chiến dịch giải phóng Thăng Long. Ngày mùng 4 Tết Kỷ Dậu 1789, nghĩa quân đã tiếp cận được đồn Ngọc Hồi, phối hợp với các đạo quân khác chuẩn bị đánh chiếm và giải phóng Thăng Long.

Zalo

Sáng sớm mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789, quân Tây Sơn khắp nơi xung trận phá hủy các chiến lũy, đồn bốt và toàn bộ hệ thống phòng thủ phía Nam đồn Ngọc Hồi, đồng thời phối hợp với đạo quân của tướng Đặng Tiến Đông mở cuộc tiến công hết sức bất ngờ tiến vào khu đồn bốt Đống Đa, nhanh chóng thọc sâu vào những vị trí trọng yếu của quân Thanh, tiêu diệt sở chỉ huy địch.

Quân Thanh bị tiêu diệt đến 5000 quân, xác chết thành gò trước sức tiến công như triều dâng của nghĩa quân Tây Sơn. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử ngay tại sở chỉ huy, nghĩa quân Tây Sơn tiếp tục truy đuổi, bao vây doanh trại của chủ tướng giặc Tôn Sỹ Nghị.

Tôn Sỹ Nghị vội vàng vượt cầu phao trên sông Nhị Hà (sông Hồng) tháo chạy. Tàn quân Thanh thấy vậy cũng chen lấn xô đẩy vượt cầu phao đến nỗi cầu phao cũng gãy đứt, quân giặc chết hàng vạn người xác nổi đầy sông. Thăng Long được hoàn toàn giải phóng, đất nước được độc lập.

Trận Ngọc Hồi - Đống Đa đại thắng đã chứng tỏ nghệ thuật quân sự của người "anh hùng áo vải, cờ đào" Quang Trung Nguyễn Huệ, đó là: Thần tốc - Táo bạo - Bất ngờ. Bằng thắng lợi vĩ đại này, dân tộc ta đã đập tan sự xâm lược của quân Thanh, giải phóng hoàn toàn kinh thành Thăng Long, giữ vững nền độc lập dân tộc.

Zalo

Chiến thắng này còn đánh dấu việc nhà Tây Sơn chính thức thay nhà Lê trong việc cai quản đất Bắc Hà và trong quan hệ với nhà Thanh.

Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa là một chiến công vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử trọng đại và tiêu biểu trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Zalo

 

Bản đồ hành chính